Nhẹ nhàng, sâu lắng, món ăn này từ lâu đi vào ca dao dân ca Việt Nam như thêm một món ăn tinh thần:
“Em đi trăm quán ngàn cầu
Hải vị cũng thuộc, sơn hào cũng quen
Mà sao em vẫn cứ thèm
Đĩa rau muống luộc, lại thêm tương Bần”
Nguyên liệu làm tương Bần không khó kiếm nhưng công đoạn làm tương cực kỳ công phu và mất thời gian. Hơn nữa để cho ra đời những bát tương thơm phức, vàng ươm đòi hỏi kinh nghiệm và bí quyết của bàn tay mỗi người thợ. Phải mất ít nhất 2 tháng để cho ra đời một mẻ tương bần. Tuy nhiên, thời gian lâu hay nhanh còn tùy thuộc vào thời tiết có nắng hay không.
Tương bần- gia vị làm món ăn thêm đậm đà
Quy trình làm tương đầu tiên nếp sẽ được ngâm sau đó nấu chín thành xôi, cho xôi ra nong, để 2 ngày 2 đêm để đủ độ xôi lên mốc vàng
Trước tiên, nếp được đém đi ngâm, nước ngâm đỗ phải là nước giếng đất hoặc giếng xây đá tổ ong, không dùng nước máy. Sau đó nấu chín thành xôi. Xới xôi ra nong, nia, ủ với lá nhãn và để 2 ngày 2 đêm cho xôi lên mốc vàng. Đỗ tương đem rang vàng, đỗ phải rang với cát, tay đảo đều, lửa đượm, hạt đỗ chín đều lên màu vàng bốc mùi thơm rang xong thì đêm xay vỏ và ngâm trong chum sành từ 7-10 ngày đến khi đỗ ngả sang màu đỏ
Tương bần Hưng Yên- Đậm đà hương vị vùng quê
Sau 2 ngày 2 đêm, khi xôi nếp lên mốc thì đem ra xoa cho các hạt xôi tơi. Dùng nước đỗ ngâm trong chum sành tưới lên mốc và trộn thật đều rồi để tiếp 1 ngày 1 đêm nữa cho xôi lên mốc vàng. Tiếp đó cho mốc vào chum đỗ đã ngả cùng muối tinh với lượng phù hợp và khuấy đều rồi phơi ngoài trời nắng. Phơi tương cho tới khi nếm thử thấy nước tương ngọt đậm đà, sánh, hạt xôi mềm, màu tương vàng sậm như màu mật ong là tương đã ngấu. Lúc này có thể đóng chai và đem bán
Tương Bần đã “hớp hồn” không biết bao thực khách trong Nam, ngoài Bắc và cũng trở thành một món ăn đặc sản của người Hà Thành: “Dưa La, húng Láng, nem Báng, tương Bần”.
Tương bần- gia vị không thể thiếu ăn kèm bánh đúc
Vì thế nó là thứ nước chấm ngon không thể thiếu khi ăn bánh đúc, bánh tẻ, chấm rau muống, cà muối, thịt luộc… vào những ngày hè nóng nực. Tương còn dùng để chế biến nhiều món ăn như tóp kho tương, kho cá… hay rim đậu, thịt cho những ngày mùa đông se lạnh.
Tương là món ăn mang ý nghĩa cộng đồng. Trong mâm cơm mọi thứ rau dưa, thịt cá đều chấm vào đó, mới nổi hương vị. Nó đằm thằm mà khiêm tốn, không xốc nổi, sắc xảo như các thứ nước mắm miền biển, xứng đáng được người Hưng Yên ưa chuộng.