Có một điều, ít ai có thể phủ nhận, xã hội càng phát triển thì những cái Tết mang hơi hướng cổ truyền ngày càng mai một đi. Tết buồn, Tết giờ chỉ là cái lệ, bàng bạc, lâng lâng, có cái gì đó thiêu thiếu… là nhận xét của không ít người.
> Đi đâu du xuân dịp Tết âm lịch?
> Kinh nghiệm tiết kiệm cho chuyến du lịch ngày Tết
> Đi đâu chơi Tết khi kinh phí eo hẹp?
Tết giờ, những cái thể hiện một phong tục đậm đượm của Tết cổ truyền Việt như: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh dường như… nhanh chóng biến mất. Thay vào đó, Tết của phong vị này chỉ còn trong lời kể của những người mẹ chăm chỉ, muốn con cái mình sống theo cốt cách gia phong, lễ nghi.
Xã hội phát triển, thịt mỡ giờ người ta cũng kiêng ăn vì sợ béo phì, sợ gút và… sợ những cái liên quan đến sự vắn số của con người.
Dưa hành, một món ăn truyền thống, có giá trị cho tiêu hóa, đến nay bao nhà khoa học về dinh dưỡng vẫn chau mày rằng chả hiểu sao ngày xưa chỉ bằng kinh nghiệm của mình mà các cụ ta đã "sáng chế” ra món ăn ấy thì giờ đây đã được mang đến tận cửa. Hết cảnh những bàn tay gái đảm chọn rau dưa để về chuốt rửa, phơi nắng hanh của cái cữ độ cuối Đông, đầu Xuân để trổ tài muối, ghém cho chồng con ăn nữa….
Ông đồ già cho chữ trên phố, hình ảnh thân thuộc của ngày tết cổ truyền.
Bánh chưng ư, lá, lạt cũng đã thành… dĩ vãng rồi. Cũng đã được đặt, được dịch vụ mang đến tận cửa. Chỉ cần bóc, cho lên đĩa, không được hưởng giá trị của thành quả lao động. Để cho nhiều con trẻ giờ ăn bánh chưng đấy nhưng nếu hỏi, đố đứa nào biết bánh chưng làm từ cái gì, gồm cái gì và làm như thế nào mà thành.
Phát triển và đánh đổi, cuộc sống không cho không và cũng không lấy không của người ta cái gì. Môi trường, lễ nghi, phong tục tập quán thay đổi, cái Tết cũng bị sự phát triển này lấy đi rất nhiều thứ. Kể cũng nhanh thật, ngược về vài chục năm trước thôi, thời gian chưa đủ "giải mã” cho một số kiếp con người thì những cái Tết mang hơi hướng cổ truyền đã bị thời gian chóng vánh "giải mã”!
Đào xuân.
Các vùng miền, phong tục, lễ nghi của Tết giờ đây đã thay đổi nhiều quá! Ngay quê tôi thôi, cái xã vùng biên nằm ven đường Quốc lộ số 2, nơi có tới gần 7 sắc tộc sinh sống giờ cũng chẳng người dân nào giữ được cho nguyên lành phong tục ăn Tết riêng có của mình nữa. Các trò chơi tìm duyên vào cữ độ Xuân như "vỗ mông kén vợ” của người Mông, "leo cột tìm vợ” của người Tày… giờ chỉ còn "sống lại” khi có dịp được ai đó đứng ra tổ chức.
Người sinh sôi nảy nở, nhà cửa đua chen, văn hóa gây sức ép cho nhau, không còn không gian để bảo lưu nữa. Cái xã bé nhỏ, mới cảnh đèn dầu phập phù của hơn 10 năm về trước giờ đã đủ dân, đủ nhà cao tầng để người ta xếp và đưa lên hàng… thị trấn rồi. Đông vui tụ hội, người có tiền ở các nơi kề cận đổ về mua đất làm nhà.
Mỗi người về, đem về một phong cách, "quan điểm” sống khác nhau, thế là tính cộng đồng của người gốc gác bị "phá” đi. Đường làng ngõ xóm cứ ngày bị thu hẹp thành các ngõ tin hin. Cuộc sống phức tạp hơn, tường rào cao và chắc hơn, lại cửa đóng then cài nữa. Khó mà làm quen, khó mà chào hỏi. Người già giờ cứ thui thủi với 4 bức tường. Tết truyền thống cũng... nhạt nhòa hơn!
Vùng rừng Quốc gia Xuân Sơn, xa ngái tận Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, nơi có người Dao sinh sống, Tết hình như cũng chỉ là cái cớ để người ta nhắc đến mỗi độ xuân về. Thời trước, vòng vèo tít tắp, xe máy có nổ "đỏ pô” mới vượt dốc vượt đèo vào được tận vùng lõi này. Bốn bản Dù, Cỏi, Lạn, Lấp với phong tục tập quán đậm đượm của người Dao cần bảo tồn nay cũng đã có vẻ "hòa nhập” lắm rồi.
Tục đốt pháo mừng năm mới ngày xưa.
Mấy năm trước, độ xuân này mà vào với xã Xuân Sơn, gặp ông Chủ tịch xã người Dao có tên là Bàn Xuân Lâm thì khách cứ phải… há hốc mồm nghe ông kể về tập tục và hát những bài tìm vợ, tìm chồng. Nhưng thú nhất là tục "ngủ ngửi” vào độ Xuân của người Dao đeo tiền ở đây. Không những kể, không những nghe mà nếu cần còn được đi mục sở thị.
Ấy thế mà nay những tập tục lạ kỳ của người Dao đeo tiền ở đây đã nhanh chóng biến mất. Quần áo sắc phục cũng chả còn, rượu bia do nhà máy sản xuất đã theo xe vào đến tận nơi, thay thế thứ rượu đoác truyền thống, uống cả ngày không say của người Dao đeo tiền.
Hỏi về một số tập tục thì người quên, người nhớ. Muốn tận mắt tìm hiểu cũng chả có nữa. Riêng tập tục "ngủ ngửi”, một tập tục thiêng liêng của trai gái Dao đeo tiền vào mỗi dịp Xuân nay đem ra hỏi thì cứ bị người ta cho là… "hỏi đểu”. Vì sao ư, vì nó bị mai một và lạm dụng nhiều lắm rồi. Chính vì vậy sự thiêng liêng của nó đã mất đi và đã được nam thanh nữ tú ở đây biến thành chuyện… thường ngày ở huyện.
Nấu bánh chưng ngày Tết.
"Sáng mồng một sớm tinh sương. Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường. Mở hàng mỗi đứa hai xu rưỡi. Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương” là cái chuyện mà tôi phải "giải trình” cùng đứa cháu vào độ Tết năm ngoái, khi nó vô tình nhặt được cuốn thơ của ông Thi sỹ đa tình Nguyễn Bính trên giá sách. Sao lại cấm ra đường, xu, hào là thế nào. Lại còn rau mùi nữa, người ta chỉ dùng… để ăn sao lại rửa được mặt à???
Thế mới có cái chuyện buồn cười với anh bạn tôi về mừng tuổi ở quê vợ. Biết nhà quê vào độ Tết đông trẻ nên anh đã chuẩn bị những 5 loại lì xì trong túi. Ý định là cháu mình sẽ cho lì xì tiền lớn còn cháu xa chút cho lì xì với mệnh giá nhỏ. Tưởng cho chúng để như cái lệ nhưng không ngờ chúng xé ngay trước mặt mọi người để… kiểm ngân. Đứa ít, đứa nhiều, ghen tỵ nhau đến inh ỏi. Anh bạn tôi vì vậy cũng bị một phen muối mặt với cái Tết quê vợ mình.
Hà Nội, mấy mươi năm trước, ngày ông Tô Hoài còn phơi phới trung trẻ, cặm cụi ngồi bên ô cửa sổ vùng Nghĩa Đô "thai nghén” tác phẩm để đời "Dế mèn phiêu lưu ký” thì Tô Lịch sông còn rộng miên man. Thấy bảo ngày ấy, ngồi nhà viết văn mà ông Tô Hoài còn đón được cả những cơn gió hanh hao của cữ độ cuối Đông, đầu Xuân từ sông Tô thốc lên, mang theo cả những mùi ngái của con nước, cá tôm và bùn phèn khắc giao thời.
Ngày ấy, gần chỗ ông Tô Hoài ở, sông Tô Lịch mênh mang, kéo dài từ Hồ Tây xuống tận khu dưới, qua cả vùng làng Cót, làng Mọc. Sông Tô thời ấy rộng lắm, để đi lại có cả chục bến đò ngang được hình thành. Ngày thường các bến đò này đã tấp nập, ngày Tết còn tấp nập hơn. Mé chếch phía Đông khu Nghĩa Đô mà ông Tô Hoài sống bây giờ còn nổi tiếng với chiếc chợ được coi là cổ nhất, tấp nập nhất; theo kiểu nhất cận thủy, nhị cận giang ấy là chợ Bưởi.
Chợ Bưởi được hình thành ở nơi ngã ba do sự hợp lưu của sông Tô Lịch và sông Thiên Phù. Giờ tôi cũng chẳng biết cái sông Thiên Phù ấy nó ở đâu, biến dạng và mất tích lúc nào rồi! "Chợ Bưởi tháng họp sáu phiên. Ngày tư tháng chín cho duyên đèo bòng”, đã có rất nhiều mối tình, lương duyên được nhen nhúm từ đây, ở các phiên chợ, nhất là chợ Tết. Không chỉ là ngày tư tháng chín mà chợ Bưởi còn là phiên chợ nổi tiếng vào những độ giáp Tết.
Tết, những bến đò đông nghịt người! Tre, giang, lá, măng… đặc sản của các vùng Tây và Đông Bắc đã tụ hợp, cắt đường từ sông Cái về đây. Người chen người, chân chen chân; trẻ theo mẹ, theo già đi chợ Tết. Từ đây, mọi thứ đặc sản qua sự lựa chọn đã về với các gia đình. Gói bánh, nấu bánh bên sông Tô Lịch của các gia đình vào chiều 30 là một hình ảnh rất đỗi làng quê Việt, với người dân Kinh kỳ Thăng Long.
Ấy thế mà mọi thứ Tết một thời, nhoáng cái, chỉ còn trong… hoài niệm!